Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011

Chuyên đề tình dục (sex) trong xã hội xưa

*MLC: Nhân dạo qua blog Nguyễn Xuân Diện thấy chủ đề về tình dục trong xã hội Việt Nam xưa, chợt thấy hay hay nên cũng muốn cọp về lưu trữ tại blog mình.
Tình dục dưới con mắt của những người có suy nghĩ thoáng thì coi đó như một phần tất yếu của cuộc sống hàng ngày như cơm ăn, nước uống và chả có gì đáng ngại ngùng phải che dấu, người khác thì coi đó như một việc tế nhị, thậm chí là xấu xa và có xu hướng che dấu hay nói tránh. Nhưng những ai đã từng xem những điệu hát 'ghẹo' Phú Thọ sẽ thấy những động tác mô phỏng cảnh làm tình giữa cặp trai gái, hay trong ngày lễ hội tại Đồng Kỵ vào đêm ngày tan hội tại đình làng sẽ có trò tranh dương vật giả bằng gỗ. Theo đó nếu ai cướp được đem về nhà mình thì năm đó gia đình sẽ làm ăn phát đạt, mọi sự hanh thông, v.v. (Tài liệu trong cuốn Một vùng đất cổ -chưa có kiểm chứng thực tế). 
MLC xin chia sẽ một số tài liệu về chủ đề này. Kính mong quý vị cho ý kiến chỉ giáo.

Trước hết là mấy bài cọp được từ blog Nguyễn Xuân Diện.
----------------------------------------------------------------
Bài 1.

LẠI MỘT QUẢ BOM SEX NỮA


Linh tinh tình phộc. Ảnh: Đỗ Doãn Hoàng
"Đĩ Tây": Bom Sex trong thơ Nguyễn Khuyến


Nguyễn Tuấn Cường


Ai bảo cụ Tam Nguyên Yên Đổ (1835-1909) nghiêm lắm, chưa từng làm thơ sex? Hihi, Cụ cũng là con người chớ! Đấy là Cụ nghe lời cụ Khổng tử từng bảo: "Ẩm thực nam nữ, nhân chi đại dục tồn yên" 飲食男女, 人之大欲存焉 (Ăn uống và trai gái, sự ham thích lớn của người ta nằm ở chỗ đó) (Lễ kí – Lễ vận).

Các cụ thật chí lí, chí lí! ^^

Khoảng 6 năm trước, mỗ đọc bài này trong cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến (1971), thấy thú quá! Sau đó mỗ trót cho một vị học huynh mượn cuốn sách, vừa được trả 2 hôm trước. Nay mỗ đưa lên đây để chư vị tham khảo. Xin trích nguyên văn cuốn sách, cả nguyên bản chữ Hán, phiên âm Hán Việt, dịch nghĩa, và dịch thơ.
-----------------

西妓

聞使部回日西妓數十人裸身而來當門而立使臣默默不言時陪使阮台座前有花香水一瓶象牙梳即取瓶水洒入戶毛以梳理之

天邊使部上車回
數十西嬙解佩來
若恨生平知我少
且將懷抱為君開
鴻荒世遠誰為此
列國文繁有是哉
更取牙梳香盒去
滋毛滌垢未曾猜

TÂY KỸ

Văn sứ bộ hồi nhật. Tây kỹ sổ thập nhân, khỏa thân nhi lai, đương môn nhi lập, sứ thần mặc mặc bất ngôn. Thời bồi sứ Nguyễn thai[1] tọa tiền, hữu hoa hương thủy nhất bình, tượng nha sơ, tức thủ bình thủy sái nhập hộ mao, dĩ sơ lý chi.

Thiên biên sứ bộ thướng xa hồi,
Sổ thập Tây tường giải bội lai.
Nhược hận sinh bình tri ngã thiểu,
Thả tương hoài bão vị quân khai.
Hồng hoang thế viễn, thùy vi thử,
Liệt quốc văn phồn, hữu thị tai!
Cánh thủ nha sơ, hương hạp khứ,
Tư mao địch cấu vị tằng sai.
(Tài liệu của ông Bùi Văn Cường)

DỊCH NGHĨA:

ĐĨ TÂY

Nghe biết ngày sứ bộ về nước, vài chục con đĩ Tây trần truồng kéo đến, đứng ngay giữa cửa, các ông lặng thinh không ai nói gì. Lúc ấy trước mặt ông bồi sứ họ Nguyễn có một lọ nước hoa và cái lược ngà, chúng liền lấy nước hoa rảy vào âm hộ rồi lấy lược chải.

Bên trời, sứ bộ sắp lên xe về,
Vài chục con đĩ Tây trần truồng kéo đến.
Chừng giận lúc bình nhật ít người biết đến,
Hãy đem cái ôm ấp phô sòng với khách.
Đời hồng hoàng đã xa, ai lại làm thế,
Văn vẻ phồn tạp các nước vốn như vậy chăng?
Còn vơ lấy lược ngà và lọ nước hoa,
Chải lông, rửa ghét[2] chẳng sượng sùng gì.

DỊCH THƠ:

Sứ bộ xe về sắp ruổi rong,
Đĩ Tây vài chục đứa tông ngông.
Chừng xưa bưng bít ít người biết,
Nay hãy phô sòng để khách trông.
Man rợ xa rồi còn thế nhỉ,
Văn hoa rườm lắm có kỳ không?
Nước hoa sẵn đấy, lược ngà đấy,
Rửa ghét cào lông chẳng sượng sùng.
HOÀNG TẠO dịch

-----------------
Nguồn: Nhiều tác giả (Xuân Diệu giới thiệu), Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, Hà Nội, 1971; phần chữ Hán tr. 430; phần phiên âm và dịch trang 219-220.

Bổ sung: khi đọc bài trên, thầy Nguyễn Hùng Vĩ nổi hứng dịch lục bát như sau:


Bên trời sứ bộ sắp dông,
Đĩ tây vài chục tồng ngồng đến ngay.
Bình thường của ấy ai hay,
Ôm eo vuốt cật lại bày cả ra.
Cái thời lông lỗ đã xa,
Văn minh phồn tạp nước nhà đây chăng?
Nước hoa với lược ngà đằng,
Chải lông rửa cáu nhố nhăng chẳng màng.

NGUYỄN HÙNG VĨ dịch
(Hà Nội, 4/4/2011)



[1] NTC chú: Thai: chữ 台 nên phiên là “đài”.
[2] NTC chú: chữ “cấu” 垢 (chất bẩn, chất dơ) ở đây nên dịch là “cáu” thì đúng hơn “ghét”. Vì “ghét” có ở khắp cơ thể, còn “cáu” thì không có ở nhiều nơi như vậy!!!

Nguồn:Nguyễn Tuấn Cường-blog.
(Nguyễn Tuấn Cường, Thạc sĩ, Giảng viên Khoa Văn học, ĐH KHXH và Nhân văn HN)


-----------------------------------------------
Bài 2.

Quyển tiểu thuyết sex táo bạo nhất trong thư tịch cổ Việt Nam


 


Quyển tiểu thuyết sex táo bạo nhất trong thư tịch cổ Việt Nam

Nguyễn Xuân Diện

Các chuyên gia về văn học cổ đều cho rằng Hoa viên kỳ ngộ là một tiểu thuyết sex táo bạo nhất trong cổ văn Việt Nam. Hiện Hoa viên kỳ ngộ tập chỉ có một bản chép tay duy nhất tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm mang ký hiệu A.2829, gồm 46 tờ (92 trang) khổ 27 x 15 cm. Tập sách được viết với nét bút rất bay bướm, lão luyện.
Cuộc gặp gỡ ở vườn hoa (Hoa viên kỳ ngộ tập) kể về cuộc tình duyên của Triệu Kiệu, con trai thứ hai của quan Tham chính họ Triệu, người đất Nam Xang thời Cảnh Hưng (1740-1786). Chàng thư sinh họ Triệu khôi ngô tuấn tú, học rộng tài cao. Một hôm dạo bước tới vườn hoa bên cầu Bích Câu, tình cờ gặp Lan Nương và Huệ Nương, con quan Ngự sử họ Kiều, đôi bên quen biết, tình tự rồi yêu nhau say đắm.
Triệu công tử được Kiều Công mến tài cho ở trong nhà để tiện thầy tiện bạn đèn sách. Chàng lân la đến khuê phòng của hai nàng, nhờ được Xuân Hoa và Thu Nguyệt là hai thị nữ của Lan Nương và Huệ Nương hết lòng giúp đỡ nên tự do đi lại. Vượt qua lễ giáo, họ đến với nhau, trai tài gái sắc, trao thân gửi phận, thỏa lòng mây mưa. Về sau Triệu Kiệu đi thi, đỗ Giải nguyên, được quan Ngự sử họ Kiều gả cả hai tiểu thư cho.
Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là tác phẩm văn học cổ Việt Nam. Căn cứ vào địa danh huyện Nam Xang (tên huyện ứng với huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam ngày nay) và tên trấn Sơn Nam được đặt từ thời Lê, có thể tác phẩm này được viết vào khoảng cuối đời Lê.
Cuộc gặp gỡ ở vườn hoa xây dựng những tài tử giai nhân, sẵn sàng vượt qua lễ giáo. Cả hai chị em Lan và Huệ cùng yêu say đắm công tử họ Triệu, giúp nhau cơ hội tiếp xúc với chàng, thậm chí nhường nhau trong buổi giao hoan cùng chàng, rồi cuối cùng là cùng chung “tận hưởng cuộc hoan lạc trong cõi nhân gian, không còn biết Triệu là Triệu, Lan - Huệ là Lan - Huệ nữa”.
Ở một đoạn khác, tác giả còn để cho Triệu Công tử đề nghị hai tiểu thư Lan và Huệ kéo cả hai thị nữ Xuân Hoa và Thu Nguyệt vào cuộc và hai tiểu thư cũng đồng ý. Thế là một chàng công tử làn lượt giao hoan với hai tiểu thư, cô em trước, cô chị sau, rồi sau đó đến lượt hai cô thị nữ nữa.
Dưới đây, xin trích một vài đoạn từ bản dịch của GS. Nhà văn Phan Văn Các, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm:
*
“…Sinh (Triệu Kiệu) cả mừng, đưa tay vuốt ve Lan mà nói rằng:
- Nàng hết lòng vì tôi như vậy, có thể gọi là con người hữu tâm đó.
Bèn kéo Lan vào lòng, một tay kéo đùi nàng, tay kia mân mê đôi vú, cười mà bảo rằng:
- Tuyệt thật, vừa mềm vừa ấm, hệt như thịt đầu gà”.
*
“…Lúc này lòng dục của Sinh chợt nổi lên. Chàng bước tới ôm lấy mà nói:
- Nàng đâu có giữ lời hứa như Quý Bố, tôi đã biết rồi. Phen này tôi quyết chẳng chịu ra về không nữa.
Nói xong cố sức đẩy Huệ xuống gối. Huệ cũng không chống cự. Trong đệm phù dung hải đường máu nhuộm, dưới chăn phỉ thúy, đan quế hương bay. Mày ngài liên hồi chớp chớp mặc cho bướm lượn săn tìm, mắt phượng lim dim mơ màng, không cấm ong bay hút mật. Xiêm màu phấp phới khác nào mưa trút hoa sen, tóc mây rối bời, hệt như gió thổi cành dương. Thật là một khắc ngàn vàng, chỉ giận đêm vui quá ngắn”.
*
“…Hai nàng nhường nhau hồi lâu, Sinh cũng không thể tự chủ được nữa bèn một tay kéo lấy vài Lan, tay kia mân mê vú Huệ, mặc sức đùa cợt trong chăn phỉ thúy, tận hưởng cuộc hoan lạc trong cõi nhân gian, không biết Sinh là Sinh, Lan Huệ là Lan Huệ nữa”.
*
“…Một đêm ánh trăng trong trẻo, hai nàng bèn sai Hoa, Nguyệt đi mời Sinh. Sinh đến, Lan bảo:
- Đêm nay cảnh xuân dần đến, trăng sáng giữa trời, cho nên chị em thiếp thết tiệc mời chàng, gọi là Lan Đình thắng hội.
Sinh nói:
- Đối ẩm trước hoa, vào xuân dưới trăng có thể gọi là việc vui thú trên đời đó.Nhưng ta nay được cuộc gặp gỡ tốt lành này, thì cô Hoa cô Nguyệt quả là có công. Đêm nay hãy cùng các cô chung vui, hai nàng thấy thế nào?
Hai nàng đồng ý. Bèn cho trải đệm Phù Lưu, rót chén thuỷ tinh, ba người vào tiệc. Rượu đã ngà ngà, Sinh ôm Lan vào lòng, sai Hoa, Nguyệt chúc rượu. Huệ thì hát mời Sinh...
Ca vừa xong thì Sinh kéo Huệ đè xuống. Huệ nói:
- Trăng sáng giữa trời thế kia, sao có thể làm vậy?
Sinh nói:
- Bể biếc trời xanh cũng chiều lòng, Quảng Hàn muốn vậy mà không được, há lại ghen nhau sao?
Rồi đẩy ngã vào trong đệm, phỉ sức mây mưa. Xong rồi Sinh lại kéo Lan, Lan cũng không chống lại. Bắt chước theo hình dáng chim âu chim vụ, phỏng học theo tư thái uyên ương, quả là niềm cực lạc trong cõi nhân gian. Sau đó đến Xuân Hoa. Lúc Xuân Hoa giao hợp với Sinh, lòng xuân rạo rực, mặc cho Sinh muốn làm gì, không hề mảy may khó khăn. Sau đó đến Nguyệt, Nguyệt không chịu. Sinh nói:
- Đất đai trong thiên hạ, mười phần ta đã có được tám chín, nay chỉ còn mảnh đất nhỏ bằng viên đạn, sao dám chống cự vương sư?
Rồi bế vào trong đệm, mặc sức mây mưa. Hoa binh nguyệt trận, nhung mã tung hoành. Giao hoan xong, Sinh lại cùng hai nàng đối ẩm. Uống mãi cho đến khi trăng lặn sau núi, bất giác say mèm. Các nàng vực chàng vào ngủ”.
Qua một số đoạn trích trên thấy người xưa cũng sex táo bạo quá. Nhà Nho mà viết về sex như thế thì thật quá lắm. Ta lý giải làm sao, khi đặt Cuộc gặp gỡ ở vườn hoa vào trong văn chương cổ Việt Nam, đột khởi một cái mấu ghê gớm như vậy. Sách thì Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu trữ. Các nhà nghiên cứu xếp nó vào tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam. Nội dung sách có địa danh Nam Xang, Sơn Nam là những địa danh Việt Nam. Các chuyên gia về văn học cổ đều cho rằng đây là một tiểu thuyết sex táo bạo nhất trong cổ văn Việt Nam. Thế thì sex Việt cổ cũng đáng gờm lắm, chứ đâu phải đợi đến các cây viết trẻ hôm nay!
Ghi chú: Bài viết trên đây, xin gửi đến các nhà văn mà tôi quen biết, giao du:
Nguyễn Đình Tú, Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh...
Nhân tiện Nguyễn Xuân Diện cũng mời vị nào chưa xem thì xem cái Clip này, đã có đến 45.155 lượt xem trên youtube:
Đây là đoạn video đặc sắc được quay tại Miếu ĐỤ ĐỊ (Miếu Trò)xã Tứ Xã, h. Lâm Thao, Vĩnh Phúc) vào đêm 14 tháng Giêng năm Mậu Tý (2008).
Đúng 12h đêm, sau khi hát thờ trước điện, xin âm dương, là diễn ra lễ mật. Khi ấy, cụ thủ từ lấy một hòm gỗ trong khám ra một cặp dương vật âm vật bằng gỗ (sơn màu đỏ, tả thực) đưa cho một cặp trai gái. Đèn nến tắt hoàn toàn.

Trong đêm tối, cụ thủ từ hô "Linh tinh tình phộc" 3 lần. Mỗi lần hô, người đàn ông cầm dương vật gỗ đâm vào trúng lỗ âm vật trên tay người đàn bà. Nếu đâm trúng 3 lần, năm ấy sẽ được mùa, cả làng đều nhân khang vật thịnh. Nếu đâm trượt, thì năm đó là một năm khốn khó!

Sau lễ mật, là tiết mục tháo khoán. Một cụ già trong làng hô "Tháo khoán" tức thì trai tân, gái tân và dân làng đổ ra khu vườn rậm rạp sau miếu, để có thể trêu ghẹo nhau trong bóng tối. Ngày xưa, sau đêm đó, trai nghèo gái khó chỉ cần 1 cơi trầu thưa với làng là có thể về ở với nhau mà không phải cưới cheo gì hết.

Đó là một nghi lễ, mỗi năm chỉ diễn ra một lần vào nửa đêm ngày 11 sang ngày 12 tháng Giêng tại xã Tứ Xã (quê của Tổng Cóc, chồng Bà Hồ Xuân Hương).

Phim này quay bằng máy quay tại lễ mật, bằng một máy quay đặc biệt có gắn tia hồng ngoại của bác Vũ Hoàng Liên (Giám đốc VDC). Chuyến đi do Nguyễn Xuân Diện tổ chức.
Nguyễn Xuân Diện




Bài 3.

"SỰ CỐ" TRONG LỄ HỘI "LINH TINH TÌNH PHỘC" NĂM CANH DẦN

Đây là đoạn video đặc sắc được quay tại Miếu ĐỤ ĐỊ (Miếu Trò) xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) vào đêm 11 tháng Giêng năm Mậu Tý (2008). Đường đi như sau: Hà Nội - đi Sơn Tây (đường 32) - Trung Hà - Cổ Tiết - qua cầu Phong Châu, rẽ phải. Đi 3 km thì rẽ phải tiếp và hỏi đến Tứ Xã thì ai cũng biết. Đường từ HN đến làng đều rất tốt, cách HN khoảng 100 km.
.
Đúng 12h đêm, sau khi hát thờ trước điện, xin âm dương, là diễn ra lễ mật. Khi ấy, cụ thủ từ lấy một hòm gỗ trong khám ra một cặp dương vật âm vật bằng gỗ (sơn màu đỏ, tả thực) đưa cho một cặp trai gái. Đèn nến tắt hoàn toàn. Trong đêm tối, cụ thủ từ hô "Linh tinh tình phộc" 3 lần. Mỗi lần hô, người đàn ông cầm dương vật gỗ đâm vào trúng lỗ âm vật trên tay người đàn bà. Nếu đâm trúng 3 lần, năm ấy sẽ được mùa, cả làng đều nhân khang vật thịnh. Nếu đâm trượt, thì năm đó là một năm khốn khó!

Sau lễ mật, là tiết mục tháo khoán. Một cụ già trong làng hô "Tháo khoán" tức thì trai tân, gái tân và dân làng đổ ra khu vườn rậm rạp sau miếu, để có thể trêu ghẹo nhau trong bóng tối. Ngày xưa, sau đêm đó, trai nghèo gái khó chỉ cần 1 cơi trầu thưa với làng là có thể về ở với nhau mà không phải cưới cheo gì hết.
.
Đó là một nghi lễ, mỗi năm chỉ diễn ra một lần vào nửa đêm ngày 11 sang ngày 12 tháng Giêng tại xã Tứ Xã (quê của Tổng Cóc, chồng Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương).

Phim này quay bằng một máy quay đặc biệt của bác Vũ Hoàng Liên (Tổng Giám đốc VDC), lúc 12 đêm 11 tháng Giêng năm Mậu Tý (2008) khi đèn nến bị tắt hoàn toàn. Đài TH Phú Thọ cũng không ghi được cảnh này, nên đã về Hà Nội để xin coppy lại, đưa lên sóng cho bà con trong tỉnh được chiêm ngưỡng.
.
Cho đến nay, đây cũng là đoạn phim tư liệu duy nhất được biết đến ở Việt Nam có ghi được mấy phút ngắn ngủi của lễ hội đặc biệt này.
.
TƯỜNG THUẬT LỄ HỘI TRÒ TRÁM XUÂN CANH DẦN
Năm nay là năm Tứ Xã mở hội đông vui hơn cả kể từ sau năm 2000 - lần đầu tiên lễ hội này được phép phục hồi, sau một cuộc hội thảo lớn. Xuân Canh Dần này, Miếu Đụ Đị (Miếu Trò) được công nhận là Di Tích Lịch Sử Văn hóa cấp Tỉnh. Dân làng và dân trong vùng tụ tập rất đông, và có khoảng 70 phóng viên báo chí các cơ quan thông tấn ở TW và các địa phương về dự.
16h chiều chúng tôi xuất phát từ HN, lên đến nơi là 8h tối. Khi ấy chương trình văn nghệ của dân làng đã bắt đầu với những bài hát ca nhạc mới. Sau đó là dân làng diễn các tích trò TỨ DÂN CHI NGHIỆP (còn gọi là trò BÁCH NGHỆ KHÔI HÀI). Trò này diễn tả cuộc sống và hành nghề của bốn hạng Sĩ Nông Công Thương và Ngư Tiều Canh Mục với cái nhìn vô cùng hài hước, dí dỏm và giàu tính nhân văn. Nhạc vẫn là nhạc bát âm, nhưng những điệu múa thì rất đơn giản mà đẹp một cách mộc mạc, nguyên gốc. Những trò diễn mộc mạc như: Ông Đồ dạy học thì dạy cho lũ học trò bướng bỉnh và ngộ nghĩnh. Dạy xong ông bảo: Bây giờ học xong rồi, các trò giả lại hết chữ cho Thầy, để Thầy còn đi dạy cho các nơi khác (kiểu các thầy đi dạy ĐH tại chức ở các tỉnh). Người đi câu thì không câu cá mà đi câu "một cô không chồng". Người đi buôn bán không bán hàng mà đi "Mãi Xuân, Mại Xuân"(Mua Xuân bán Xuân). Các cụ già ở đây viết và sử dụng đúng chữ Mại và chữ Mãi (chữ Hán).
.
Sau các trò diễn là trao bằng công nhận di tích Miếu Trò. Có đông đảo các quan khách và lãnh đạo tỉnh, huyện, xã về dự lễ trao bằng trang trọng này.
.
Đến sát 0h, cụ thủ từ lại đến ngồi trước điện thờ gảy cây đàn Giằng Xay (giống một cái dương vật khổng lồ), rồi hát thờ. Hát xong, cụ già lại một mình trèo lên trên điện thờ lấy ra hai linh vật, rồi đưa cho đôi trai gái thực hiện lễ mật. PV báo chí, dân làng và khách đều được mời đứng ra xa,cách thềm điện 5 m và tuyệt đối không dùng đèn flash khi chụp ảnh. Các PV đều tuân thủ và đưa ra điều kiện rằng sau khi thực hiện lễ mật thì phải diễn lại dưới ánh đèn điện để họ chụp ảnh đưa tin.

Sau khi lễ mật kết thúc, hai người nam nữ thực hiện lễ mật đã thay quần áo và đi ra ngoài. Lúc đó một số PV báo chí đã nêu lại yêu cầu. BTC lễ hội đành thể theo nguyện vọng này và gọi loa yêu cầu anh chị trở lại miếu, thay trang phục và thực hiện lại lễ mật dưới ánh đèn điện để các nhà báo chụp ảnh. Tất cả những hình ảnh mà các PV báo chí đưa tin về lễ hội năm nay đều là ảnh chụp trong lúc này. Như vậy, Lễ hội Miếu Trò năm nay có hai lần thực hiện Linh tinh tình phộc. Mỗi lần 3 lượt hô Linh tinh tình Phộc.

(Hồi năm 2000, lần đầu tiên phục hồi lễ mật, khi cụ từ hô Linh Tinh Tình Phộc 3 lần, đôi nam nữ làm xong, thì có mấy anh nhà báo vội nói: "Cụ ơi, cụ Phộc lại đi, con chưa quay được". Cụ thủ từ nghiêm mặt nói: "Không được!". Thế là phải chịu!).
Một năm mà nhờ có "sự cố" này, mà hai linh vật đưa vào nhau đến 2 lần, mỗi lần 3 PHỘC, thì vui vẻ hoan hỷ lắm! Năm nay chắc Tứ Xã và cả nước Việt sẽ bách cốc phong đăng, được mùa lúa ngô khoai sắn, nhân khang vật thịnh, con người con vật tốt tươi sinh sôi nảy nở! Và làng báo chí năm nay chắc cũng được "đắc tài sai lộc", "động bút hữu thần" lắm đây!
.
Khi các cụ hô "THÁO KHOÁN" thì chiêng trống ngũ liên giục vang. Đỗ Doãn Hoàng đem theo vợ (!), bèn "áp giải" vợ lên nhốt trên xe. Vợ Hoàng cự nự, may được Nguyễn Xuân Diện bảo lãnh nên được Đỗ Doãn Hoàng yên tâm cho xem màn Tháo khoán. Tôi nhanh tay được nắm tay cả hai anh chị thực hành lễ mật để lấy may. Anh chị vui lắm, nắm tay tôi rất chặt. Mọi người đổ ra khu vườn đằng sau Miếu để thực hiện màn tháo khoán được chờ đợi suốt một năm qua. Nam nữ của làng, trạc tuổi 40 - 50 ăn mặc áo nâu sồng, chít khăn đổ ra sau miếu để hô hoán và ...Chúng tôi thấy rất ít thanh niên nam nữ tham gia. Hỏi ra mới biết các em ấy rất e ngại các anh chị PV chụp ảnh đưa lên báo. Nhỡ ra ...

Sau khi tháo khoán, dân làng mời tất cả quan khách và anh chị em báo chí thụ lộc tại sân đình. Lộc Thánh là xôi trắng, thịt lợn và lòng lợn chấm với muối vừng. Rượu tất nhiên là cuốc lủi. Say rượu thì ít mà say cái tình Xuân rạo rực thì nhiều!
Say bí tỉ cái tình Xuân từ thiên thu gửi lại....
.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA LỄ HỘI TRÒ TRÁM NĂM NAY
.
.
Bó lúa được thờ trong Miếu. Ngày 12 tháng Giêng sẽ đưa lên kiệu son rước quanh làng
Bằng Công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa cấp tỉnh. Đáng lẽ phải là Cấp Quốc gia
hoặc cấp UNESCO mới phải nhỉ?
.
.
Nguyễn Xuân Diện và Đỗ Doãn Hoàng đang hỏi chuyện cụ Thủ từ Miếu Đụ Đị. Cụ năm nay mới lần đầu tiên làm thủ từ Miếu Đụ Đị, trước là cụ Chử Văn Thơ.
.
.
.
Từ trái sang: Xuân Bình, Bùi Hoài Mai, Đỗ Doãn Hoàng và Nguyễn Xuân Diện
Làm lễ trước điện thờ.
Các chị chuẩn bị ra trình nghề
Các cụ bà ngồi chờ xem lễ trình nghề
Trình diễn lại LINH TINH TÌNH PHỘC để các nhà báo chụp hình
Trò Bách Nghệ Khôi hài -hay còn gọi là TỨ DÂN CHI NGHIỆP

Dân làng mời quan khách và anh em phóng viên báo chí thụ lộc tại sân đình.
Trở lên là ảnh của Nguyễn Xuân Diện
.
.
Hai linh vật Miếu Đụ Đị. Cụ thủ từ cho biết, mỗi năm các cụ thường sơn lại cho các dụng cụ này được "tân" và trơn bóng. Ảnh này của Đỗ Doãn Hoàng.
.
MIẾU ĐỤ ĐỊ (MIẾU TRÒ) THỜ AI?
.
Cho đến nay nhiều bài báo đã viết về Lễ hội Trò Trám, về Miếu Đụ Đị, về Lễ mật, nhưng chưa cho biết chính xác Miếu này thờ ai. Tôi may mắn xem được bài chúc văn tế thần Miếu Đụ Đị, biết được danh tính của Ngài. Dưới đây xin chép nguyên văn (xưa các cụ viết bằng chữ Hán, nay viết bằng chữ Quốc ngữ). Để trên bảng văn này. Đọc chúc văn xong thì đốt đi gọi là "phần chúc". ( Tất nhiên các cụ đã phô tô 01 bản để sang năm dùng rồi)..
..
Duy,
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tuế thứ ....Chính nguyệt, Sơ thập nhật. Phúc Thọ tỉnh, Lâm Thao huyện, Tứ Xã xã, Cổ Lãm phiên. Tại Miếu Trò đồng thượng hạ đẳng, cẩn dĩ lễ vật, cảm chiêu cốc vu.
CUNG THỈNH
NGÔ THỊ THANH tiên thiên hậu thổ thị chi thần vị tiền viết:
Băng sương cốt cách - Kim ngọc tinh thần
Nhược Thủy Doanh Châu chi quý khách - Bồng Lai Hải Đảo tiên nhân
Hách quyết thanh - Trạc quyết linh. Hãn tai ngữ hạn,
Cảm tất thông - Cầu tất ứng. Bảo vật hộ dân.
Miếu mạo ức niên trường tại - Anh linh vạn cổ như tân.
Lịch niên Đông quý, tiết yếu mạnh Xuân.
Kính trần phi lễ, cựu lệ tái trần, nguyện thùy giám cách.
Tích dĩ hoàn thuần:
Vi sĩ, vi nông, vi công, vi thương hề nghiệp hoàn toại.
Viết phú, viết quý, viết thọ, viết ninh hề phúc vinh thân!
Thực lại âm phù chi đại đức dã!
PHỤC DUY THƯỢNG HƯỞNG!
Nguyễn Xuân Diện (25.2.2010

--------------------------------
Bài 4


06-01-2011


TƯ LIỆU: ĐẶC TẢ ĐÊM TÂN HÔN CỦA VUA QUANG TRUNG

Vua Quang Trung và Công chúa Ngọc Hân. Tranh: Cuộc sống Việt

TƯ LIỆU ĐẶC BIỆT: ĐẶC TẢ ĐÊM TÂN HÔN
CỦA VUA QUANG TRUNG VÀ NGỌC HÂN



Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân:

Thưa chư vị, tôi cũng đã từng nhiều năm ngụp lặn trong kho sách Hán Nôm, cũng bận tâm tra cứu các thư tịch cổ về các chuyện "nguyệt hoa hoa nguyệt" đã nhiều phen, song chưa bao giờ có được may mắn như Tam Uyên Trần Quang Đức ở Nhã Nam. Trưa hôm qua, được Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương phô rằng có cái này hay lắm, bèn đứng lại ở sảnh Hàn Lâm viện để truy vấn. Chuyết Chuyết kể câu chuyện – mà chư vị sẽ xem dưới đây. Tôi choáng quá!
Lúc ấy, trước mặt không có thư tịch, nên Chuyết Chuyết phải dùng cả đôi tay và cả toàn thân để mô tả những điều mà chàng định tả. Tôi càng choáng hơn!
Sáng nay, tại Thư khố Hán Nôm viện, bọn tôi gồm: Tam Uyển Trần Quang Đức, Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương, U Cốc khách Tô Lan cùng nhau mở 3 văn bản chữ Nho để đối chiếu và xác minh xem Tam Uyển có vì vui chuyện mà tự thêu thùa thêm chữ nào không. Quả thực là đúng như bài của Tam Uyển, không hề có sai nhầm gì. Kíp khi ấy, Kim Anh nữ sĩ cũng có mặt, bèn được bọn tôi mời vào làm chứng!
Đêm tân hôn của Hoàng đế Quang Trung 33 tuổi, còn Ngọc Hân công chúa vừa 16 tuổi. Trời đất! Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên!
Vậy đã đủ chứng, mời chư vị thưởng thức áng văn chương “vô tiền khoáng hậu” này. Xin đa tạ Tam Uyển Trần Quang Đức đã ưng cho Nguyễn Xuân Diện-blog đưa về hầu chư vị bốn phương. Xin đa tạ Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương đã có bài dịch ra thơ ngay trong trưa nay để kíp hầu chư vị.
Dưới đây là nguyên văn chép từ Trần Quang Đức-Blog:
Việt Nam đệ nhất dâm thi Tây Sơn hành
Tam Uyển Trần Quang Đức
Bữa trước trong lúc dư nhàn, mỗ có tìm đọc cuốn Tản Ông di cảo (散翁遺稿mang ký hiệu A.2157) của danh sĩ thời Lê là Trần Danh Án. Đọc đến bài Tây Sơn hành thì quả thật hãi hùng chi thậm. Ông này là tôi trung của nhà Lê, kiên quyết bất hợp tác với triều Tây Sơn, thủy chung coi Tây Sơn là giặc mọi, thậm chí tỏ thái độ thù hằn và phất uất khi vua Lê gả công chúa Ngọc Hân cho Quang Trung Nguyễn Huệ. Nay đọc Tây Sơn hành mới càng thấy rõ điều đó. Có điều, từ ý tứ đến ngôn từ trong bài thơ này đều hết sức dâm bôn xằng bậy, càng ngẫm càng thẹn cho kẻ mũ cao áo dài. Xét tự cổ chí kim, văn chương nước nhà chưa có áng dâm thi nào đặng so sánh được. Nay xin tạm phiên âm dịch nghĩa ra đây, rồi sau xin các bậc thiện Nôm chi quân tử cùng diễn ra thơ quốc âm vậy. (Bài thơ này còn được chép trong cuốn Thù thế danh thư 酬世名書 ký hiệu VHv.2239 và cuốn Danh nhân văn tập 名人文集 ký hiệu VHv.2432)

西山行
時阮整引西山阮惠兵來京城,景興皇帝以玉欣公主下嫁阮惠故有此作.
海宇承平二百年深宮春色鎖嬋娟嫣紅錦褥人眼獨 淺翠花裀蝶夢纏不是神仙無對偶可堪芳景忽流連
紗窗寂寞梅酣雪邃篽離披柳困煙花事闌珊春已矣
殘英落絮總堪憐鼕鼕何處城邊鼓羯塵漫塞長安路
亟夏方旋振葉風深春忽點催花雨鬚眉無膽控危城
釵扇將身抵驕虜天王姊婦上公妃不比尋常花巷主
尊榮貴寵對天潢奠聘奩儀優特數雲水騶從翠綺羅
風流儐相紛紳冑扇夫轎子儘非常都人見者呼為父
人羡新郎如一口妾見新郎墜雙手衣裳熳爛語侏离
骨相崚嶒皮皺古頂上高堆張角巾腿間不著韓信褲
其中一物望巍然直與四肢峙為五靜似高僧兀坐忘
動如弁子歌身舞不言不笑不溫存大吼一聲烈如虎
千鈞飛蹲據酥胸怒裂羅裙披雪股此物誰知解刺人
頡頏插入溫柔戶嬌花枝上狂鶯揉狂鶯不為嬌花護
花膜重重裂繒聲鉛爐片片飛煙縷牙咬肉顫汗如油
亂搗胡抽做不住須臾裙帶落新紅暗點春籌翻幾度
妾身兩孔似連環瞬息通成一大圈捲襦點閱忽驚訝
頏摩不值半文錢黑暗既非前度白縈紆又改舊時圓
呼鬟拿甕尿一尿尿水之聲如飛泉飛泉瀲灧去不返
陽風打落桃花片桃花嬌怯不勝風風斂花魂猶覺倦
盈盈柳骨瘦三分褶褶湘羅寬一半底事雖然不殺人
暮雨朝雲安熟爛自從奇苦得奇歡歡後卻忘舊苦艱
不患漁翁揮棹澀溶溶桃浪漲平灘左掬右摸探花髓
鶯不停梭蹀不攔玉癢香搔失害羞上摟下扭圓團團
風情蕩漾花心急恐放東君頃刻間蠻人老實多高興
不會輕挑只會鑽浮世青雲如過客一生幾度托春眠
衾裯樂處無夷夏痴徇空名誤玉顔不見錦機脂粉隊
西兵去後幾人還誰將此為語姊妹嫁郎及早嫁西山
Phiên âm
TÂY SƠN HÀNH
Thời, Nguyễn Chỉnh dẫn Tây Sơn Nguyễn Huệ binh lai Kinh thành, Cảnh Hưng hoàng đế dĩ Ngọc Hân công chúa hạ giá Nguyễn Huệ, cố hữu thử tác.
Hải vũ thừa bình nhị bách niên, Thâm cung xuân sắc tỏa thuyền quyên
Yên hồng cẩm nhục nhân nhãn độc, Thiển thúy hoa nhân điệp mộng triền
Bất thị thần tiên vô đối ngẫu, Khả kham phương cảnh hốt lưu liên
Sa song tịch mịch mai hàm tuyết, Thúy ngự ly phi liễu khốn yên
Hoa sự lan san xuân dĩ hĩ, Tàn anh lạc nhứ tổng kham liên
Đông đông hà xứ thành biên cổ, Yết trần mạn tắc Trường An lộ
Cức hạ phương toàn chấn diệp phong, Thâm xuân hốt điểm thôi hoa vũ
Tu my vô đảm khống nguy thành, Thoa phiến tương thân để kiêu lỗ
Thiên vương tỉ phụ thượng công phi, Bất tỉ tầm thường hoa lộng chủ
Tôn vinh quý sủng đối thiên hoàng, Điện sính liêm nghi ưu đặc số
Vân thủy sô tùng thúy ỷ la, Phong lưu tấn tướng phân thân trụ
Phiến phu kiệu tử tận phi thường, Đô nhân kiến giả hô vi phụ
Nhân tiện tân lang như nhất khẩu, Thiếp kiến tân lãng trụy song thủ
Y thường mạn lạn ngữ thù ly, Cốt tướng lăng tằng bì trứu cổ
Đính thượng cao đôi Trương Giác cân, Thoái gian bất trước Hàn Tín khố
Kỳ trung nhất vật vọng nguy nhiên, Trực dữ tứ chi trì vi ngũ
Tĩnh tự cao tăng ngột tọa vong, Động như biền tử ca thân vũ
Bất ngôn bất tiếu bất ôn tồn, Đại hống nhất thanh liệt như hổ
Thiên quân phi tồn cứ tô hung, Nộ liệt la quần phi tuyết cổ
Thử vật thùy tri giải thích nhân, Hiệt hàng sáp nhập ôn nhu hộ
Kiều hoa chi thượng cuồng oanh nhu, Cuồng oanh bất vi kiều hoa hộ
Hoa mạc trùng trùng liệt tăng thanh, Diên lô phiến phiến phi yên lữ
Nha giảo nhục chiên hãn như du, Loạn đảo hồ trừu tố bất trụ
Tu du quần đới lạc tân hồng, Ám điểm xuân trù phiên kỉ độ
Thiếp thân lưỡng khổng tự liên hoàn, Thuấn tức thông thành nhất đại khuyên
Quyển nhu điểm duyệt hốt kinh ngạc, Hàng ma bất trị bán văn tiền
Hắc ám ký phi tiền độ bạch, Oanh vu hựu cải cựu thời viên
Hô hoàn nã úng niệu nhất niệu, Niệu thủy chi thanh như phi tuyền
Phi tuyền liễm diễm khứ bất phản, Dương phong đả lạc đào hoa phiến
Đào hoa kiều khiếp bất thắng phong, Phong liễm hoa hồn do giác quyện
Doanh doanh liễu cốt sấu tam phân, Triệp triệp tương la khoan nhất bán
Để sự tuy nhiên bất sát nhân, Mộ vũ triều vân an thục lạn
Tự tòng kì khổ đắc kì hoan, Hoan hậu khước vong cựu khổ gian
Bất hoạn ngư ông huy điệu sáp, Dung dung đào lãng trướng bình than
Tả cúc hữu mô thám hoa tủy, Oanh bất đình thoa điệp bất lan
Ngọc dạng hương tao thất hại tu, Thượng lâu hạ nữu viên đoàn đoàn
Phong tình đãng dạng hoa tâm cấp, Khủng phóng đông quân khoảnh khắc gian
Man nhân lão thực đa cao hứng, Bất hội khinh thiểu chỉ hội toàn
Phù thế thanh vân như quá khách, Nhất sinh kỉ độ thác xuân miên
Khâm trù lạc xứ vô di hạ, Si tuẫn không danh ngộ ngọc nhan
Bất kiến cẩm cơ chi phấn đội, Tây binh khứ hậu kỷ nhân hoàn
Thùy tương thử vị ngữ tỉ muội, Giá lang cập tảo giá Tây Sơn.
Dịch nghĩa:
TÂY SƠN HÀNH
Bấy giờ, Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ tới Kinh thành, Hoàng đế Cảnh Hưng gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, cho nên có bài thơ này.
Bờ cõi thanh bình đã hai trăm năm
Ở nơi thâm cung xuân sắc, người đẹp bị khóa chặt
Cô đơn nằm trên nệm gấm hồng tươi
Say giấc mộng bướm dưới lớp áo hoa biêng biếc
Không phải là thần tiên không có người sánh đôi
Mà cám cảnh thơ ngây bỗng vương lòng lưu luyến
Song the hiu quạnh, bông mai đượm tuyết
Vườn uyển sâu thẳm, liễu ám khói sương
Mùa hoa đi qua, xuân cũng đã hết
Cánh hoa tàn, tơ mành buông, thật là đáng thương
Tùng Tùng! Đâu đó vang lên tiếng trống ven thành
Lũ rợ Kiệt đến, bụi mù khắp Tràng An
Chưa cuối hè mà đã có gió lay lá
Đương xuân chín mà bỗng lác đác giọt mưa bứt hoa.
Đấng mày râu không có gan giữ được cung thành
Để bực quần thoa phải gán thân cho giặc mạnh
Con gái Thiên vương phải làm phi cho Thượng Công
Nào phải bậc chúa hoa tầm thường.
Để tỏ lòng tôn vinh đối với hoàng tộc
Sính lễ cùng nghi thức hết sức đặc biệt
Ngựa xe như mây nước, tùy tòng mặc toàn gấm vóc
Đám phù rể phong lưu, áo mũ xênh xang.
Bọn phu quạt, phu khiêng kiệu đều lạ lùng
Người kinh đô thấy đều gọi là ‘cha’
Ai cũng hâm mộ chú rể
Còn cô dâu trông thấy chàng rể thì buông đôi tay.
Quần áo thì sặc sỡ diêm dúa, giọng nói thì trọ trẹ
Dáng dấp ngang tàng, da dẻ nhăn nhúm
Trên đầu chất cao cái khăn của Trương Giác
Giữa chân không mặc cái quần của Hàn Tín
Ở bên trong, một vật trông rất nguy nga
Cùng với tứ chi, sừng sững thành năm ngọn
Lúc tĩnh lặng, giống như cao tăng nhập tọa
Lúc động đậy, tựa như võ biền vừa hát vừa múa
Chẳng nói chẳng cười chẳng từ tốn
Gầm lớn một tiếng, mãnh liệt như hổ
Nghìn cân sà xuống, chồm hỗm chiếm bộ ngực như bơ
Tức tối xé rách chiếc váy là đang che cặp đùi tựa tuyết
Vật này ai cũng biết là có thể đâm người
Ngúc ngoắc rồi chọc vào cánh cửa êm ấm
Bông hoa kiều diễm trên cành bị oanh khùng giày vò
Con oanh khùng không hề giữ gìn bông hoa kiều diễm
Lớp lớp màng hoa, tiếng xé vải
Mảnh mảnh lò chì bốc lên những ngọn khói
Răng nghiến, xác thịt rung, mồ hôi như dầu
Nện bừa, rút quấy, làm không dừng
Phút chốc, giọt hồng trinh rớt trên dải váy
Âm thầm mấy độ xuân qua
Trên thân thiếp hai lỗ tựa vòng khâu
Trong nháy mắt thông thống thành một hốc lớn
Vén áo lót kiểm tra bỗng kinh ngạc
Bị sờ bóp không đáng giá nửa xu
Thâm tím, không còn màu trắng xưa kia
Méo mó, khác rồi khối tròn thưở trước
Gọi a hoàn bưng chậu nước đi tiểu một cái
Tiếng nước tiểu như dòng thác tuôn
Dòng thác sóng sánh một đi không trở lại
Ngọn gió thổi rụng cánh hoa đào
Hoa đào kiều diễm, khiếp sợ, không chịu nổi gió
Gió ngớt, hồn hoa còn thấy mệt lả
Vóc liễu gày đi ba phần
Áo lụa gấp rộng một nửa
Việc này tuy không đến nỗi chết người
Nhưng cứ sớm mây chiều mưa sao lại không nát bét chứ
Từ khi chịu cái khổ lạ lùng lại được cái sướng lạ lùng
Sau khi sướng lại quên hết nỗi gian khổ ngày xưa
Chẳng lo ông chài khua chèo bị rít
Sóng đào bát ngát dâng ngập bờ cát phẳng
Vốc bên trái, sờ bên phải, thăm dò nhị hoa
Con oanh chẳng ngừng luồn, con bướm chẳng ngăn cản
Ngọc ngứa, hương gãi, không còn thẹn thùng
Trên ôm, dưới siết, cuộn lại tròn vo
Cuộc phong tình tràn ngập, lòng hoa bướm háo hức
Chỉ sợ rời ‘chúa hoa’ trong khoảnh khắc.
Kẻ man di thật thà, rất nhiều khi lên cơn hứng
Chỉ biết đâm dùi, chứ không biết nhẹ nhàng ve vuốt
Cảnh đời mây nổi, tựa như khách qua đường
Cả đời được mấy lúc hưởng trọn giấc xuân
Thú chăn gối không phân biệt người Kinh, người rợ
Si ngây chuốc lấy danh hão, người ngọc lỡ lầm
Không thấy đám phấn son ở Cẩm Cơ sao
Sau khi quân Tây Sơn đi, có mấy thằng quay lại?
Ai nấy hãy đem việc này nói rõ với chị em:
Lấy chồng thì cứ sớm lấy bọn Tây Sơn ấy.

Dưới đây là bản dịch thơ của Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương:

Cõi thanh bình hai trăm năm lẻ
Chốn thâm cung khóa trẻ đương tơ
Gấm tươi phô nét hững hờ
Áo hoa biêng biếc, bơ thờ[1] giấc xuân
Khách thần tiên chưa lần sánh mộng
Lòng thơ ngây chợt động tơ vương
Song mai tuyết đọng chán chường
Vườn hoa thăm thẳm khói sương liễu bồ
Hoa đã rụng xuân hồ cũng hết
Xác còn buông mấy nét tơ sương
Thoắt thôi trống động biên cương
Bao nhiêu rợ mọi ngập đường Tràng An
Buổi cuối mùa gió man lay lá
Đương xuân hồng mưa rã nhị hoa
Mày râu trốn hết đâu mà?
Để cho má phấn phải ra gán mình
Thân công chúa thình lình thiếp giặc
Thân ấy đâu phải bậc tầm thường
Hoàng cung quốc sắc thiên hương
Thì thôi sắm lễ tiện đường rước đi
Xe như nước ngựa phi giăng gấm
Phù rể trông cũng thậm xênh xang
Lạ lùng tôi tớ khiêng sang
Lê dân Kẻ Chợ bàng hoàng xuýt xoa
Hâm mộ ngắm chàng ta rể quý
Nàng Ngọc Hân gạt lệ xuôi tay
Người đâu trọ trẹ thế này
Da thời nhăn nhúm, dáng rày[2] ngông nghênh
Khăn với áo xông xênh diêm dúa
Giữa hai chân không khố lão Hàn
Bên trong một vật hiên ngang
Ngũ chi sừng sững như đang thượng tòa
Khi lúc lắc tựa là nhảy múa
Chẳng nói năng sấn sổ xông ra
Cọp gầm hùng hổ chu choa
Nghìn cân sà xuống một tòa thiên nhiên
Xé toạc váy giở miền ngà ngọc
Vật này ôi đã xọc thân hoa
Xăm xoi ngúc ngoắc vào ra
Oanh khùng khục tiếng, hoa dà dà son
Ôi giày xéo hoa don vật vã
Nhụy non tơ rách tã còn đâu
Hơi hùm bốc khói trên đầu
Thịt rung răng nghiến như dầu bôi thân
Chọc bừa đâm quấy tần vần
Giọt hồng cứ giỏ mấy lần nếp voan
Âm thầm bấy, mầu xoan vuột mất
Nhụy thuở nào e ấp xinh xinh
Thoắt thôi hoang hoác thân[3] mình
Nhìn xem xiêm áo thất kinh rụng rời
Thân vàng ngọc đáng thời nửa cắc
Màu trinh nguyên đã mất vẻ xưa
Ngực non méo mó dật dờ
Buồn cơn đổ xuống một bờ thác tuôn
Thác đã tuôn cũng khôn níu lại
Cánh hoa đào gió tãi nào vun
E rằng gió giật chăng dừng
Hồn hoa mệt bã vô chừng bấy hoa
Thân liễu yếu ngót ba phần đủ
Xiêm y thay, thít chửa vừa thân
Mây mưa đã giãi phong trần
Tuy chăng mất mạng, cũng dần nát tan
Càng đau lạ lại càng sướng lạ
Sướng này thôi cũng hả đau kia
Chèo khua chẳng ngại gẫy chìa
Sóng đào bát ngát dâng kìa bãi xa
Đôi trái cấm xuýt xoa kia nọ
Oanh chăng ngừng, bướm tỏ nguồn yêu
Ngọc ngà ngứa ngáy hương phiêu
Trên ôm dưới siết còn đâu thẹn thùng
Cuộc phong tình bướm hoa háo hức
Chẳng nỡ rời một lúc một giây
Vũ phu hứng động dâng đầy
Vuốt ve chẳng đoái, cuốc cầy quen chân
Cảnh mây nổi một thân làm khách
Khách qua đường chớ trách mộng xuân
Gối chăn đâu cũng xoay vần
Danh suông để hão, trong ngần vấy nhơ
Đám phấn son Cẩm Cơ chửa đủ
Gã Tây Sơn liệu có quay về
Việc này nói tỏ cho nghe :
Lấy chồng cứ lấy chẳng nề quân Tây !

[1] Bơ thờ (từ cổ): uể oải, lười.
[2] Rày: nay
[3] Theo nguyên bản nên dịch là “cửa”, nhưng nay đổi chữ cho nó đỡ dữ.
*
Phụ chép: Tiểu sử của Trần Danh Án – tác giả của bài Tây Sơn hành:

Trần Danh Án (1755 – 1794), người xã Bảo Triện huyện Gia Định – nay là thôn Bảo Triện, xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cháu Trần Phụ Dực, con Trần Danh Lâm.
Thi Hương đỗ Giải nguyên. Thi Hội đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) đời Lê Mẫn Đế.
Làm quan đời Lê Chiêu Thống đến chức Viên ngoại lang, hành Chiếu khám. Khi Lê Chiêu Thống chạy lên vùng Bắc Giang, ông đang giữ chức Nội hàn, đi theo làm tùy tùng. Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh, ông ở lại quê nhàm cùng Trần Quang Chân, Dương Đình Tuấn dấy binh chống triều Tây Sơn. Khi nghe tin Chiêu Thống chết ở Trung Quốc, ông gào khóc thương tiếc rồi mất.
Nguồn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919. Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006. trang 645.


---------------------------
Tiếp theo sẽ là Kamasutra của Ấn độ, Tố Nữ Kinh và Nhục Bồ Đoàn của Trung Quốc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét