Phạm Chí Dũng (BBC) - Tình
hình này cũng khiến nảy sinh một đặc thù mới mẻ và đầy hấp dẫn trong
nội bộ truyền thông nhà nước: phân hóa sâu sắc giữa nhóm báo “kiên định”
như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Đại Đoàn Kết, Sài
Gòn Giải Phóng với số còn lại của hơn 700 tờ báo được phép phát hành.
Mặt báo Đảng vẫn loang lổ những từ ngữ “chống đối, thù địch, vu cáo,
vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, đội lốt...” không thay đổi trên mặt báo
Đảng sau hai mươi năm qua, được ưu ái dành cho những người và những tổ
chức cần phải “quay đầu là bờ”...
*
Ông Hoàng Văn Lễ vốn là tổng biên tập có thâm niên lâu năm của Sổ tay
Xây dựng đảng - tờ báo được xem là cửa khẩu chính ngạch của Ban Tuyên
giáo thành ủy TP.HCM.
Gương mặt có vẻ trầm muộn, dáng đi lặng cúi và không nổi bật trong giới
học hàm học vị, viên chức tuyên huấn này đã chỉ được nhiều người biết
đến sau khi một blogger của trang mạng Tâm sự Y giáo và vài nhà phê bình
văn học như Phạm Thị Hoài công bố một “nghiên cứu nhân bản” đột biến:
TS Hoàng Văn Lễ, tác giả có bài viết trên báo Sài Gòn Giải Phóng phản
kích “âm mưu” thành lập đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng, cũng
chính là các tác giả “Amari TX tức Mai Hoàng Kiên tức Trung Thành tức
Tuyên Trần tức Tường Anh tức Trần Mai tức Hữu Đức tức Trọng Linh tức
Khánh Sơn ad libitum” trên các báo Đảng.
Bằng vào phương pháp so sánh và đối chiếu trong nghiên cứu khoa học, sự
phát hiện trên đã cho thấy nhóm trị số của các tác giả cùng gốc gác trên
là đặc biệt tương hợp.
Với kết quả thú vị như thế, điều mà khoa học so sánh làm được trong
trường hợp này không chỉ dẫn ra kết luận về sự giả danh Việt kiều của
cán bộ tuyên giáo, mà còn lôi ra ánh sáng một sự thật lý thú hơn nhiều:
nguồn nhân lực phản tuyên truyền của đảng đã gần như cạn kiệt.
Cân bằng truyền thông
“Phản tuyên truyền”, hay “tuyên truyền theo định hướng”, là thuật ngữ
được đại trà phổ biến và triển khai trong toàn bộ hệ thống và công tác
tư tưởng văn hóa từ khoảng hai chục năm trước. Ba chủ đề chính mà công
tác phản tuyên truyền trọng tâm hóa là bảo vệ an ninh chính trị, an ninh
tư tưởng văn hóa và an ninh tôn giáo.
Từ sau năm 2000, Internet bắt đầu bùng nổ và khá nhanh chóng làm cho
chính thể khó ngủ. Chỉ trong vòng một thập niên, mạng thông tin toàn cầu
đã khiến những uẩn ức và bất mãn trong lòng dân biến thành mạng thông
tin xã hội.
Từ vị thế hoàn toàn manh mún, thông tin xã hội lại dần được chắp vá thành mô hình truyền thông xã hội.
Bắt đầu từ những năm 2005-2006, một trong những nhóm bất đồng chính kiến
có ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam là Khối 8406 đã triệt để dùng Internet
và truyền thông xã hội để loan tải tư tưởng và nội dung hành động của
họ.
Và cũng từ thời điểm đó, công tác phản tuyên truyền trên báo đảng đã bắt buộc phải “thay đổi về lượng và chất”.
Điều ngày càng hiển nhiên là các cơ quan khoa giáo, tư tưởng văn hóa,
tuyên huấn và sau này là tuyên giáo của Đảng đã không còn chiếm ưu thế
trong hoạt động thông tin một chiều.
Đa dạng và đa chiều thông tin luôn có thể gây “xâm hại” đến đa nguyên tư
tưởng, kể cả tạo ra tư tưởng đảng phái và thái độ thay thế chính đảng
cầm quyền.
Cũng từ năm 2000, một sự kiện không kém “diễn biến” là độ mở trong quan
hệ Việt - Mỹ bắt đầu hình thành, được chứng thực bởi Hiệp định song
phương thương mại giữa hai quốc gia vốn là cựu thù.
Mở lối chính trị lại tiếp sức cho thoáng đạt thông tin. Người dân và
nhiều trí thức trong đảng đã dần biết đến những tin tức tổng hợp của các
đài báo quốc tế về một số tình hình được xem là thực chất hơn nhiều so
với thông tin một chiều trên báo đảng, liên quan đến “triều chính”, quan
điểm đối ngoại, những phong trào và cá nhân bất đồng, đối kháng, kể cả
hiện tình của văn nghệ nước nhà hoặc nhiều khuất tất về tài chính.
Cũng vào thời gian này, trong lực lượng phản tuyên truyền đã xuất hiện
dấu hiệu “mỏng” dần, dù mức nhuận bút được cải thiện đáng kể.
Một số đánh giá không chính thức từ những người làm công ăn lương đã cho
thấy các bài viết phản tuyên truyền không còn nhất quán về lập trường
và theo phương châm triệt để dùng lý lẽ để phản bác các “luận điệu sai
trái” như trước đây.
Thay vào đó là tính tư tưởng và lý luận trở nên trung dung và có vẻ ôn
hòa hơn, các luận điểm nêu ra cũng xa rời thực tế đời sống hơn, hiệu ứng
lan tỏa và tác động của bài viết thấp hơn.
Khi những cuộc biểu tình đầu tiên chống Trung Quốc can thiệp vào Biển
Đông chớm nở ở Hà Nội, cũng là lần đầu tiên dư luận chú tâm đến đến một
sắc thái mới: nội dung phản tuyên truyền trên báo đảng đã bắt đầu phải
đề cập nhiều hơn hẳn những thông tin “không chính thống”, thay cho thái
độ bỏ qua hoặc rất ít nhắc tới những thông tin này trong giai đoạn trước
đây.
Vào lúc này, chủ đích phản tuyên truyền đã được xem như một trọng điểm nặng gánh đối với ngành tuyên giáo.
Cũng vào lúc này, “lề đảng” đã bắt buộc phải tích cực “nhân bản” đối
tượng tuyên truyền viên và dư luận viên, trong đó đặc biệt quan tâm “bồi
dưỡng” những cây viết phản tuyên truyền được xem là “cao cấp”.
Đặc biệt từ đầu năm 2013 đến nay, mối tương tác giữa truyền thông nhà
nước với truyền thông xã hội càng có tính song ánh. Hàng loạt sự kiện đã
xảy ra và đánh dấu quan hệ “môi răng” như thế: “Kiến nghị 72” của một
nhóm nhân sĩ, trí thức; hai vụ tuyệt thực của các ông Cù Huy Hà Vũ và
Điếu Cày Nguyễn Văn Hải; hoặc gần đây nhất là hiện tượng Lê Hiếu Đằng
với tư tưởng “tính sổ” với Đảng.
Càng về sau này, “độ trễ” trong phản ứng của hoạt động phản tuyên truyền
càng được thu ngắn. Nếu như trước đây, độ trễ ấy có thể đến cả tháng,
thì về sau này đã chỉ còn vài tuần lễ.
Thậm chí, liên quan đến vụ việc giáo dân giáo xứ Mỹ Yên ở Nghệ An bị
chính quyền và công an địa phương trấn áp vào đầu tháng 9/2013, đã có
đến hơn mười bài phản tuyên truyền được tung lên trên mặt báo Nghệ An
chỉ vài ngày sau đó - một hiện tượng rất gần với khái niệm “Cơn lên đồng
tập thể” mà ông Lê Hiếu Đằng đã dùng để điềm chỉ giới báo chí quốc
doanh “đánh hội đồng” mình.
Cùng với độ mở chính trị đối ngoại giữa Nhà nước Việt Nam trong thế bắt
buộc phải tương tác với Mỹ và phương Tây, năm 2013 đang chứng kiến một
hình ảnh chưa có tiền lệ: thế tạm thời cân bằng giữa truyền thông xã hội
với báo chí nhà nước, không chỉ trên phương diện tuyên truyền mà còn cả
về các tin tức kinh tế - xã hội - văn hóa.
Đây cũng là thời điểm mà yêu cầu phản tuyên truyền được “nâng cao thêm
một mức”, làm mọi cách để có được những Amari TX từ việc “nhân bản”
những dư luận viên cao cấp như TS. Hoàng Văn Lễ mà người ta đã có dịp
xâu chuỗi và cười cợt.
Chuyển lề
Dù đã có nhiều cố gắng, nhưng điều đáng tiếc cho các báo đảng là họ ngày
càng khó xử và mất sĩ diện trong việc lôi kéo các tờ báo quốc doanh
khác tham gia vào mặt trận phản tuyên truyền.
Trong những vụ việc “nhạy cảm” như Đoàn Văn Vươn, Phương Uyên hay các
nhân vật “lệch lạc về quan điểm”, những tờ báo có tiếng tăm nhất ở Việt
Nam như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Vietnamnet đã chỉ tham gia một cách miễn
cưỡng trong khuôn khổ định hướng cầm tay chỉ việc của Ban Tuyên giáo
trung ương.
Hiện có phân hóa sâu sắc giữa nhóm báo “kiên định” như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân...với số còn lại của hơn 700 tờ báo Việt Nam.
Tình hình này cũng khiến nảy sinh một đặc thù mới mẻ và đầy hấp dẫn
trong nội bộ truyền thông nhà nước: phân hóa sâu sắc giữa nhóm báo “kiên
định” như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Đại Đoàn Kết,
Sài Gòn Giải Phóng với số còn lại của hơn 700 tờ báo được phép phát
hành.
Mặt báo Đảng vẫn loang lổ những từ ngữ “chống đối, thù địch, vu cáo, vu
khống, bịa đặt, xuyên tạc, đội lốt...” không thay đổi trên mặt báo Đảng
sau hai mươi năm qua, được ưu ái dành cho những người và những tổ chức
cần phải “quay đầu là bờ”.
Vẫn là ý thức hệ độc đoán được mặc định trong tư tưởng bài viết, lối
hành văn khuôn cứng, giáo điều không chỉ về văn phạm và cấu trúc mà còn
rơi vào cơn khủng hoảng hiếm muộn từ ngữ. Không khá hơn, ngoài mảng
thông tin “công an hóa”, những thông tin “lề dân” được báo đảng trích
dẫn cũng thường được triệt để vận dụng thủ pháp “tuyên truyền xám” như
đã được chính những tờ báo này chỉ trích giới truyền thông phương Tây.
Một nhân viên an ninh có thâm niên, tất nhiên giấu tên, đã bình luận về
chất lượng phản tuyên truyền trên báo đảng: “Họ vẫn viết như ngày nào...
Cứ viết thế này thì sẽ chẳng có ai đọc nữa.”
Cũng có một dư luận viên ngán ngẩm: “Nói quay đầu là bờ, nhưng coi chừng đến bờ lại quay đầu.”
Phải chăng những lời trần tình ruột rà trên là thực trạng đau khổ của
giới lãnh đạo tuyên giáo Việt Nam? Trong khung cảnh thê thảm về thực tồn
xã hội cùng sự thăng hoa bất chấp của các nhóm lợi ích tài phiệt lẫn
chính trị, một xu thế không thể tránh khỏi trong tương lai gần là những
tay viết “lề đảng” đang rơi vào tâm thế im lặng.
Sự im lặng này được giải thích xuất phát từ hai nguồn cơn chính: phản
tuyên truyền như thế nào và để làm gì nếu như trong tâm khảm họ không
còn trung trinh tính chính nghĩa? Và làm sao để bắt bẻ “lề dân” bằng
những lý lẽ trái ngược với lòng dân?
Hoặc như lời một phụ nữ ở Văn Giang, Hưng Yên thốt lên với lực lượng
công an trong ngày chống cưỡng chế thu hồi đất phi pháp vào năm 2012:
“Các cậu đuổi dân để bảo vệ ai? Bảo vệ những đứa đang chà đạp chính gia đình của các cậu à?”.
Độ mở đối ngoại cũng hiển nhiên mang tính bắt buộc đối với độ mở dân chủ
nội trị. Rất không loại trừ trong vài ba năm tới, những cây viết “lề
đảng” sẽ dần chuyển sang “lề dân”, và cái sự thật cay đắng đó lại càng
làm cho cơn sốt rét khan hiếm nguồn lực phản tuyên truyền của báo đảng
và giới tuyên giáo “mensêvích” trở nên cấp tính hơn.
(Nguồn: Dân Làm Báo)
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/blogs/2013/09/130909_vn_party_and_newspapers.shtml
(Danlambao xin phép tác giả được đổi "lề phải" thành "lề đảng")
(Danlambao xin phép tác giả được đổi "lề phải" thành "lề đảng")
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét